Chảy máu não là gì? Các công bố khoa học về Chảy máu não
Chảy máu não là một tình trạng trong đó máu chảy ra khỏi mạch máu trong não. Điều này có thể xảy ra do vỡ mạch máu hoặc chảy máu từ các mạch máu nhỏ trong não. ...
Chảy máu não là một tình trạng trong đó máu chảy ra khỏi mạch máu trong não. Điều này có thể xảy ra do vỡ mạch máu hoặc chảy máu từ các mạch máu nhỏ trong não. Chảy máu não có thể gây ra các triệu chứng như đau đầu cấp tính, buồn nôn, nôn mửa, hoa mắt, mất thị giác, tê liệt hay không thể di chuyển một phần cơ thể, mất ý thức và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng như tổn thương não, liệt nửa người, hay thậm chí tử vong. Chảy máu não là một tình trạng khẩn cấp yêu cầu điều trị ngay lập tức từ các chuyên gia y tế.
Chảy máu não có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, bao gồm:
1. Tổn thương mạch máu: Đây là nguyên nhân chính gây ra chảy máu não. Mạch máu trong não có thể bị vỡ hoặc bị thủng, gây ra sự chảy máu. Tổn thương mạch máu có thể do các yếu tố như động kinh, tắc nghẽn mạch máu do hình thành cặn bã, suy dinh dưỡng hoặc quá trình lão hóa.
2. Aneurysm: Đây là một trạng thái khi thành phần cơ của mạch máu bị tăng một cách không bình thường và gây ra sự giãn nở. Lan rộng của aneurysm này có thể gây ra áp lực lên thành mạch máu và cuối cùng dẫn đến vỡ và chảy máu.
3. Cú đập mạnh vào đầu: Tổn thương do cú đập mạnh vào đầu có thể gây tổn thương mạch máu và gây chảy máu não.
4. U tử cung: U tử cung không phải lúc nào cũng gây chảy máu não, nhưng khi có áp lực lên mạch máu trong não, nó có thể gây ra chảy máu.
5. Bệnh tim và huyết áp cao: Một số bệnh tim, như vịnh thần kinh thần kinh và nhồi máu cơ tim, cũng như huyết áp cao, có thể gây ra chảy máu não do tăng áp lực trong mạch máu.
Các triệu chứng của chảy máu não bao gồm: đau đầu cấp tính, buồn nôn, nôn mửa, hoa mắt, mất thị giác, tê liệt một phần cơ thể, mất thăng bằng, mất ý thức và co giật. Trong trường hợp chảy máu não nghiêm trọng, nguy hiểm đến tính mạng, các triệu chứng như mất ý thức sẽ xuất hiện.
Điều trị một trường hợp chảy máu não yêu cầu sự can thiệp ngay lập tức từ các chuyên gia y tế. Điều trị có thể bao gồm thuốc chống coagulation để ngăn chặn chảy máu, phẫu thuật để sửa chữa mạch máu bị hỏng hoặc gắn đinh tạo áp lực cho mạch máu. Việc điều trị sẽ tùy thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng của chảy máu.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "chảy máu não":
<b><i>Đặt vấn đề/Mục tiêu:</i></b> Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là xác định mối liên hệ giữa sự canxi hóa động mạch và các vết chảy máu vi mạch (CMB) liên quan đến phân bố của chúng. <b><i>Phương pháp:</i></b> Chúng tôi đã xác định 834 bệnh nhân liên tiếp bị đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính hoặc cơn thiếu máu thoáng qua đã được thực hiện chụp mạch CT và hình ảnh trọng số độ nhạy. <b><i>Kết quả:</i></b> Canxi hóa động mạch cảnh trong (ICA) và CMB được phát hiện ở 660 bệnh nhân (79.1%) và 335 bệnh nhân (40.2%), tương ứng. Canxi hóa ICA có mối liên hệ độc lập với CMB ở bất kỳ vị trí nào (tỷ lệ odds, OR, 2.86, 95% CI 2.01-4.08, p < 0.0001). Mối liên hệ giữa canxi hóa và CMB sâu mạnh hơn (OR 3.51, 95% CI 2.39-5.14, p < 0.0001). Tuy nhiên, canxi hóa ICA không có liên quan đến CMB trong khu vực strict lobar. <b><i>Kết luận:</i></b> Canxi hóa ICA là yếu tố nguy cơ độc lập cho CMB sâu nhưng không phải cho CMB strict lobar. Các phát hiện của chúng tôi có thể góp phần làm sáng tỏ nguyên nhân bệnh sinh của bệnh mạch nhỏ trong não.
Các tiêm nội nhãn thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch thường được sử dụng trong điều trị các bệnh lý hoàng điểm, bao gồm cả phù hoàng điểm do tiểu đường. Các thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch có thể đi vào tuần hoàn hệ thống sau khi tiêm nội nhãn và có vẻ như làm giảm mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong tuần hoàn. Tuy nhiên, hiện tại chưa rõ liệu điều này có thể gây ra bất kỳ sự kiện phụ hệ thống nào hay không.
Một người đàn ông Nhật Bản 70 tuổi được chẩn đoán mắc phù hoàng điểm do tiểu đường ở cả hai mắt đã được điều trị bằng các tiêm nội nhãn thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch. Một tháng sau khi nhận hai mũi tiêm aflibercept cách nhau 1 tuần cho phù hoàng điểm ở cả hai mắt, bệnh nhân phàn nàn về cơn đau đầu cấp tính nghiêm trọng. Bệnh nhân được chẩn đoán mắc chảy máu não do tăng huyết áp ở thùy chẩm dựa trên kết quả huyết áp tăng cao 195/108 mmHg cùng với các kết quả chụp CT và MRI não. Bệnh nhân đã được điều trị bằng cách tiêm tĩnh mạch nicardipine hydrochloride để hạ huyết áp hệ thống. Hai ngày sau cơn đột quỵ, bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng đường uống 80 mg/ngày telmisartan, duy trì trong 3 ngày, và liều telmisartan được giảm xuống 40 mg/ngày sau đó. Huyết áp của ông nhanh chóng giảm xuống 130/80 mmHg, và cơn đau đầu nghiêm trọng của ông đã biến mất. Một năm sau cơn đột quỵ não, telmisartan được ngừng do huyết áp của ông ổn định ở mức bình thường. Mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương của ông được đo bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch gắn enzyme đặc hiệu trước và sau các tiêm nội nhãn aflibercept. Ngay trước các mũi tiêm, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch là 28 pg/ml, nhưng nó nhanh chóng giảm xuống dưới giới hạn phát hiện trong vòng 1 tuần, và duy trì ở mức đó trong hơn 2 tháng. Hai ngày trước khi xảy ra chảy máu não, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương của ông nằm dưới giới hạn phát hiện, và 2 tháng sau cơn đột quỵ, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương phục hồi lên 41 pg/ml.
Trường hợp này cho thấy rằng tăng huyết áp và sự chảy máu não do đó có thể xảy ra ở bệnh nhân mắc phù hoàng điểm do tiểu đường khi mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương bị giảm xuống dưới giới hạn phát hiện trong một thời gian dài sau khi tiêm cục bộ các tác nhân chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch vào khoang dịch kính. Do đó, mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương bị giảm nghiêm trọng có thể là một yếu tố rủi ro cao hơn để phát triển đột quỵ, tình trạng hiếm gặp. Các bác sĩ nhãn khoa nên nhận thức được khả năng giảm nghiêm trọng mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương và sự gia tăng huyết áp dẫn đến sau khi tiêm nội nhãn một thuốc chống yếu tố tăng trưởng nội mô mạch. Nếu có thể theo dõi mức độ yếu tố tăng trưởng nội mô mạch trong huyết tương một cách dễ dàng và nhanh chóng trong quá trình điều trị, điều này sẽ giúp ngăn ngừa các sự kiện bất lợi.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 8